Giá thể tự nhiên: Gỗ mục, các nguyên liệu có chất xơ. Tai nấm mèo phát triển qua bốn giai đoạn và được gọi tên theo hình dạng quả thể

Nấm
mèo (hay nấm tai mèo) có tên khoa học là Auricularia, thuộc lớp nấm Đảm
(Basidiomycetes). Theo Lowry (1951), có tất cả 10 loài nấm mèo. Tùy
loài, có loài cần nhiệt độ nóng. Thí dụ: ba loài A. delicata, A. tenuis,
A. emini, chỉ mọc ở vùng nhiệt đới (tropics), ba loài khác, A.
mesenterica, A. ornata và A. polytricha có thể mọc được ở hai vùng nhiệt
độ: nhiệt đới và cận nhiệt đới (subtropics), nhưng A. polytricha có
nhiệt độ thấp tối thích là 27oC và A. mesenterica, ngoài nhiệt độ thấp
(topt = 25oC), còn cần ẩm độ cao. Hai loài A. cornea và A. fuscosuccinea
có khả năng thích nghi một cách linh động đối với nhiệt độ, tuy nhiên,
A. fuscosuccinea lại thích hợp với nhiệt độ cao (32oC). Loài A. auricula
lại thích hợp với nhiệt độ ôn hoà, chỉ nuôi trồng được ở vùng cận nhiệt
đới.
Nấm mèo là nấm nhiệt đới, thích hợp với điều kiện khí hậu ở
nước ta, đồng thời sản phẩm bảo quản chủ yếu bằng cách phơi khô, nên từ
lâu nấm mèo được nhiều người nuôi trồng, thậm chí hình thành những làng
chuyên canh loại nấm này.
Nấm mèo trồng phổ biến ở các tỉnh phía
Nam là nấm mèo lông (A. polytricha). Tai nấm dày, dễ nuôi trồng và năng
suất tương đối cao. Theo X.C. Luo (1993), ở Trung quốc, năng suất bình
quân của nấm mèo lông là 70- 80% nấm tươi trên trọng lượng khô, nếu tính
ra nấm khô là 10- 11% so với nguyên liệu, nghĩa là bịch phôi 1,5 kg (1
kg mạt cưa và 0,5 kg nước), sẽ thu được 100- 110g nấm khô.
II. NGUYÊN LIỆU
Nấm
mèo có thể nuôi trồng trên nhiều loại nguyên liệu khác nhau, như: rơm
rạ, bã mía, bông thải, mạt cưa, gỗ khúc... Tuy nhiên, năng suất nấm trên
các nguyên liệu gỗ vẫn cao hơn hẳn.
Gỗ trồng nấm mèo thường là gỗ
cây lá rộng, có nhựa, nhưng không chứa tinh dầu. Qua so sánh, cho thấy
nấm mèo mọc tốt trên mạt cưa cây Bọ chét (Leucoena leucocephala). Dân
các tỉnh đồng bằng phía Nam sử dụng chủ yếu là các cây vườn, như : Mít
(Artocarpus heterophyllus), Xoài (Mangifera indica), Mãng cầu ta, xiêm
(Annona squamosa, A. Muricata), Còng (Samanea saman), Sung (Ficus
racemosa), Gòn (Ceiba pentandra), So đũa (Sespania grandifora)...Ở miền
Trung, sử dụng nhiều các loại cây rừng và cây vườn cho trồng nấm , như
Cóc rừng (Lannea coromadelica), Mít (Artocarpus heterophyllus)... Miền
Bắc có thể trồng thêm trên các loại cây, như: cây Da cao su hay Da búp
đỏ (Ficus elastica), cây Ngái (Ficus hispida), cây Vả (Ficus
auriculata), cây Bồ đề (Ficus religiosa), cây Si (Ficus benjamina), cây
Phượng vĩ (Delonia regia)....
III. MÙA VỤ CỦA NẤM MÈO
Phần
lớn những nhà trồng ở Trung và Nam Đài loan bắt đầu trồng nấm mèo vào
tháng 8 hoặc tháng 9 và chấm dứt vào tháng 2 năm tiếp theo (khoảng năm
đến sáu tháng).
Ở Việt nam, đặc biệt các tỉnh phía nam có thể
trồng nấm mèo quanh năm. Tuy nhiên, hiện nay, ở một số tháng, như từ
tháng 2 đến tháng 6, năng suất nấm giảm và dễ phát sinh bệnh, nên người
trồng thường tránh các tháng này để khỏi bị thiệt hại.
Như vậy,
thật sự nấm mèo bắt đầu vào vụ (nuôi trồng nhiều), chỉ từ khoảng tháng 8
đến tháng 2 năm sau (tương tự như ở Đài loan).
Vùng phát triển
nấm mèo mạnh và tương đối ổn định là Long Khánh tỉnh Đồng Nai, với sản
lượng trung bình 1000- 1200 tấn nấm khô/ năm. Ở TP. Hồ chí Minh, có
nhiều huyện trồng nấm mèo tương đối lâu và phong trào khá mạnh, như: Hốc
Môn, Thủ Đức, Củ Chi... sản lượng khoảng 100 - 150 tấn nấm khô/ năm.
Ngoài ra, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cũng đang phát triển mạnh
việc nuôi trồng nấm mèo, như Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang,
Trà Vinh..., sản lượng đạt khoảng 100 tấn nấm khô/ năm. Như vậy, nếu
tính cả số nấm nuôi trồng rãi rác ở các tỉnh khác của phía Nam, bao gồm
một vài tỉnh miền Trung, thì tổng sản lượng nấm mèo nuôi trồng hiện nay
khoảng 1500 tấn nấm khô/ năm (so với tổng sản lượng nấm trên thế giới
chiếm khoảng 11%).
IV. TRỒNG NẤM MÈO BẰNG TÚI MẠT CƯA
Phương
pháp này sử dụng nguyên liệu chính là mạt cưa, nên dễ đóng túi theo
kích thước mong muốn và có thể bổ sung thêm dinh dưỡng cần thiết cho
nấm. Túi cơ chất sau đó, được thanh trùng ở nhiệt độ thích hợp, nên ít
bị tạp nhiễm.
Qui trình trồng trên mạt cưa có thể tóm tắt như sau:
(*) Có thể có hoặc không, nếu bổ sung thêm : N-P-K (15-30-15), Urê, DAP, SA liều lượng không quá 5%o, MgSO4 1-2%o.
(**)
Cần bổ sung cho nấm. Chất dinh dưỡng thêm vào, có thể là bã mía (tỉ lệ
20%) hoặc cám (tỉ lệ 6%); ngoài ra, cần thêm các thành phần đạm (N-P-K,
urê...), khoáng (KH2PO4, MgSO4...) liều lượng tương tự đối với mạt cưa
cao su.
Tuy nhiên, do qua nhiều khâu, nên giá thành của bịch cao
và người trồng phải có số vốn ban đầu tương đối khá mới làm được. Thí
dụ, muốn trồng 1000 bịch nấm mèo phải có ít nhất hai triệu đồng (chưa kể
mặt bằng và nhà trại).
Ngoài ra, trong quá trình nuôi trồng trên mạt cưa cần lưu ý một số điểm sau:
-
Để tránh nhiễm tạp: mạt cưa nên sàn hoặc rây, nhằm loại bỏ các vâm bào,
gỗ vụn, làm khử trùng không tốt. Chất dinh dưỡng bổ sung, như cám hoặc
bắp, nếu thô (to hạt), nên làm ẩm trước. Thanh trùng theo đúng qui
trình, gồm nhiệt độ và thời gian
- Để giữ chất lượng dinh dưỡng cơ
chất: mạt cưa tốt nhất là đừng bị nhiễm mốc trước. Quá trình ủ nguyên
liệu dài ngày, nếu muốn vi sinh vật có thể lên men đống ủ, nên hạ lượng
vôi ban đầu xuống (0,5%, thay vì 1% cho quá trình ủ ngắn). Nếu thời gian
ủ dài, cần định kỳ đảo trộn. Dinh dưỡng trộn vào, nên đóng bịch, khử
trùng, để nguội và cấy giống ngay.
- Để cho tơ nấm mọc tốt: cần
bổ sung thêm dinh dưỡng, trong đó cân đối nguồn đạm thích hợp cho nấm.
Thí dụ, tỉ lệ C/N (Carbon/ Nitơ) của nấm mèo là 35, trong khi tỉ lệ C/N
của mạt cưa cao su trên 56. Do đó, theo nguyên tắc là phải thêm đạm vào
nguyên liệu trồng nấm. Ngoài ra, nấm cần nhiều nguyên tố khoáng cho sự
tăng trưởng của nó, như: P, K, Ca, Mg.... Bên cạnh yếu tố dinh dưỡng,
điều kiện nuôi ủ cũng rất quan trọng, như độ thông thoáng, nhiệt độ hạ
(28o- 30 oC) ... giúp tơ nấm phát triển tốt, ít bệnh.
V. KHỬ TRÙNG CƠ CHẤT TRỒNG NẤM MÈO
Nguyên
liệu trước khi cấy giống cần khử trùng để diệt các mầm bệnh có thể hại
nấm. Để việc làm này có kết quả, cần có sự phối hợp của ba yếu tố:
-
Chất lượng nguyên liệu sử dụng: nguyên liệu cũ, bị mốc, kích thước
không đồng đều, thành phần phức tạp, thiếu ẩm… sẽ khó khử trùng hoặc
phải khử trùng kỹ hơn. Ngoài ra, nếu bao bì bị bám bẩn, ở miệng hoặc vỏ
bọc bên ngoài, nút bông bị ướt... đều dễ phát sinh nhiễm tạp.
-
Chế biến và ủ đống nguyên liệu: nguyên liệu trộn thêm các chất có tác
dụng khử trùng như vôi, thuốc tím (Permanganat Kali - KMnO4)... giúp hạn
chế một phần mầm bệnh. Trong quá trình ủ, nhiệt độ đống ủ tăng cao
(60o- 80oC), cũng góp phần diệt nhiều vi sinh vật có hại. Quá trình ủ
cũng làm nguyên liệu hút ẩm đồng đều hơn, cũng tạo nhiều thuận lợi cho
việc khử trùng.
- Cách thức khử trùng: phương pháp khử trùng phổ
biến hiện nay là dùng nhiệt ẩm (có hoặc không có áp suất) và cần thiết
bị tương ứng. Dù phương pháp nào cũng đều phải đảm bảo nhiệt độ và thời
gian khử trùng thích hợp. Một vài nơi còn sử dụng thùng phuy, nắp đậy
được làm bằng nhựa và bao bố ướt. Nhiệt độ các nồi này thường không cao,
khoảng 85- 90oC, do đó, phải kéo dài 5 - 6 giờ.Nhiều nơi khác, hệ thống
nấu dùng chảo có vỏ bọc bằng tôn, sắt, xi măng ... dạng hình khối hộp,
cửa mở ra trước mặt. Nhiệt độ nồi thường không cao, khoảng 95o- 100oC,
thời gian hấp từ 3-4 giờ.
Khu vực Long Khánh còn làm nồi khối
tròn, có nắp đậy và ốc vặn chắc chắn, nhưng nhiệt độ sử dụng khoảng
105oC trong 2 giờ 30 - 3 giờ.
VI. TRỒNG NẤM MÈO NHƯ THẾ NÀO CHO CÓ NĂNG SUẤT
Năng suất nấm lệ thuộc bởi nhiều yếu tố, bao gồm:
- Giống nấm.
- Thành phần dinh dưỡng.
- Điều kiện nuôi ủ và chăm sóc.
- Phòng bệnh.
1. Meo giống nấm
Muốn nâng năng suất nấm mèo, trước tiên phải có nguồn giống cung cấp tin cậy, còn lại là tùy thuộc kỹ thuật người trồng.
2. Dinh dưỡng cho nấm
Liên
quan đến loại mạt cưa (loại gỗ) và thành phần thêm vào. Thành phần này
có thể cung cấp ngay từ lúc trộn nguyên liệu, nhưng cũng có thể bổ sung
thêm vào giai đoạn phát triển của quả thể. Dinh dưỡng trộn thêm vào
nguyên liệu có thể là phân bón hoá học hoặc 1% đường ăn hoặc khoáng
như Kali, Phosphat, Magnê... . Ngoài ra, nhiều loại phân bón lá, như
N-P-K, Komix, Bimix, HVP... đều có thể dùng để tưới bổ sung cho nấm. Urê
dùng tưới nấm rất tốt, nhưng khi phát sinh bệnh, nhất là mốc, phải
ngưng ngay. Tuy nhiên, quan trọng vẫn là khâu chế biến và ủ nguyên
liệu. Nguyên liệu chuẩn bị tốt năng suất chắc chắn sẽ cao.
3. Điều kiện nuôi
Góp
phần đáng kể trong việc nâng năng suất nấm. Nếu trong thời gian ủ tơ,
nhiệt độ lên cao hoặc xuống thấp quá, cũng làm ảnh hưởng đến kết quả
nuôi trồng, đặc biệt trong tình trạng thiếu oxy, tơ bị ngộp, tiết nước,
năng suất giảm nhanh. Do đó, bịch nuôi ủ nên để thoáng, mật độ vừa phải,
có cửa sổ để gió lùa vào phòng làm giảm nhiệt độ, nhưng tránh
nắng rọi trực tiếp . Khi tơ đã lan đầy bịch, bắt đầu chuyển sang giai
đoạn tưới đón nấm. Giai đoạn này có nhiều vấn đề phải giải quyết:
- Nên treo bịch hay xếp kệ?
- Rạch bịch như thế nào?
- Lúc nào bắt đầu tưới và tưới ra sao
- Nấm như thế nào thì thu hái được?
Phổ
biến hiện nay người nuôi trồng vẫn thích treo hơn để dàn kệ, vì đở tốn
kém và dễ vệ sinh. Trong trường hợp ở nhà vườn, có thể kết hợp nuôi
trồng nấm mèo dưới các tán cây, để giảm một phần chi phí xây dựng. Bịch
treo thành từng xâu 5- 6 bịch, chiều cao không nên quá 1,6m, để dễ quan
sát và chăm sóc.
Để cho nấm “ có chỗ chui ra “, trên thành bịch
phải rạch thành nhiều đường. Đường rạch không cần lớn, chỉ cần dài
khoảng 2 cm, nhưng gồm nhiều đường (12- 15 đường), theo nhiều hướng xung
quanh thành bịch. Đường rạch cần đủ rách bao nylon, không phạm sâu vào
khối mạt cưa có tơ nấm.
Sau khi, rạch khoảng sáu giờ là có thể
tưới nước. Lúc này vết thương của tơ nấm ở các vết rạch đã có thể lành
lặn. Đồng thời, nước tưới sẽ làm tăng ẩm độ và giảm nhiệt độ, kích thích
nấm kết quả thể tốt hơn.
Khi thịt nấm đã hình thành ở các lỗ rạch
(dạng con sâu), cần giữ ẩm tốt để quả thể phát triển bình thường. Nấm
sẽ chuyển qua các giai đoạn của quá trình phát triển và trưởng thành,
bìa mép mỏng dần và bắt đầu có hiện tượng dợn sóng là đến thời điểm thu
hái. Thường người ta bón thêm dinh dưỡng vào lúc nấm dạng tách, để kích
thích nấm tăng trưởng nhanh, hoặc tưới urê vào lúc nấm dạng dĩa, để
tăng trọng lượng quả thể và làm màu sắc nấm đẹp hơn.
4. Phòng bệnh
Là
vấn đề lớn hiện nay, nhất là khi phong trào trãi rộng, nhà nhà trồng
nấm. Với số lượng bịch nuôi trồng lớn và trồng quanh năm, nếu không
có biện pháp phòng bệnh tốt, thì khó đạt được kết quả. Việc phòng bệnh
bao gồm: - Chọn giống khoẻ
- Xử lý và khử trùng tốt nguyên liệu.
- Giữ môi trường nơi nuôi trồng thật vệ sinh. Nên rửa bịch trước khi rạch 2 giờ.
- Hạn chế sử dụng thuốc sát trùng trực tiếp lên nấm. Chỉ nên phun thuốc trừ sâu bệnh trước và sau khi nuôi trồng.
- Nên phân lô (bịch tốt, bịch xấu) để tiện chăm sóc
Có thể tóm tắt những việc nên làm vào không nên làm, khi nuôi trồng nấm mèo.
Có thể tóm tắt những việc nên làm vào không nên làm, khi nuôi trồng nấm mèo.
NÊN LÀM
| NÊN TRÁNH |
Chọn giống tốt
|
Meo giống không rõ nguồn gốc
|
Nuôi ủ tơ (bịch phôi) nơi thoáng, có ánh sáng nhẹ (không chiếu nắng).
|
Chồng chất bịch hoặc treo dày quá khi ủ (nấm bị ngộp, nhiệt độ tăng) hay tối quá (dễ phát sinh bệnh).
|
Thêm dinh dưỡng hoặc phân bón vào nguyên liệu.
|
Thêm hoá chất hoặc thuốc trừ sâu vào bịch phôi (để phòng bệnh)
|
Tưới nước sau khi rạch bịch 6 giờ, để hạ nhiệt và tăng ẩm độ, kích thích nấm kết quả thể.
|
Tưới nước ngay sau khi rạch hoặc để quá lâu (ba đến năm ngày), nấm yếu, dễ phát sinh bệnh.
|
Bón thêm dinh dưỡng cho nấm khi ra tai, để tăng năng suất.
|
Nấm thiếu dinh dưỡng (sẽ kéo dài quá trình ra tơ và thu hoạch)
|
Phun thuốc phòng bệnh nhàtrồng trước và sau khi đưa nấm vào tưới.
|
Phun thuốc bừa bãi trong lúc chăm sóc và tưới nấm, trừ khi phát sinh bệnh, nên diệt tập trung.
|
Hiện nay, với một bịch 1,5 kg có thể thu được trung bình từ 70- 90g nấm mèo kh
Tóm lại, cần đảm bảo các điều kiện phù hợp với nhu cầu cho nấm và vệ sinh công nghiệp, thì mới thu được kết quả tốt nhất.
VII. NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THẤT BẠI KHI TRỒNG NẤM MÈO
Nấm
mèo cũng giống như các ngành nông nghiệp (chăn nuôi và trồng trọt)
khác, nếu không có những hiểu biết và chuẩn bị tốt, thì vẫn có thể bị
thất bại.
Nguyên nhân thất bại có thể do các lý do sau:
- Giống thoái hoá, nhiễm tạp, tai nấm nhỏ, năng suất kém. Do đó, tốt nhất nên chọn nơi có nguồn giống tin cậy để mua.
-
Nguyên liệu khử trùng không tốt, chổ ủ nóng và không vệ sinh, hoặc đôi
khi do sơ ý, cấy giống vào khi bịch còn nóng. Làm tỉ lệ bịch hư hỏng
cao.
Bịch phôi trong giai đoạn ủ tơ, nếu để chồng lên nhau hoặc
chổ ủ không thông thoáng (bí hơi), nhiệt độ tăng cao, nắng chiếu trực
tiếp... tơ đổ mồ hôi, tiết nước vàng. Đường rạch trên bịch quá dài, tưới
nước giọt lớn, cũng là nguyên nhân làm năng suất nấm giảm và tuổi thọ
bịch rút ngắn lại.
- Dịch bệnh làm thất thu. Quá trình rạch bịch,
nếu nơi treo nóng và khô, lại chậm tưới nước dễ phát sinh bệnh trứng
(nhện mạt hay mites). Nhà trồng hoặc ủ, không vệ sinh hoặc gần trại gà,
trại heo, thì dịch bệnh cũng có thể phát sinh và lây lan.
Tóm lại,
so với chăn nuôi và trồng trọt, thì trồng nấm là tương đối nhàn hạ hơn,
nhưng phải có những hiểu biết nhất định thì mới thu hái được kết quả
tốt nhất.
VIII. BỆNH Ở NẤM MÈO VÀ CÁCH KHẮC PHỤC
VIII. BỆNH Ở NẤM MÈO VÀ CÁCH KHẮC PHỤC
Cũng giống như nấm rơm, nấm mèo có thể bị một trong hai loại bệnh chính: bệnh sinh lý và bệnh nhiễm.
1. Bệnh sinh lý
Nấm
mèo có thể biểu hiện một số bệnh không do nhiễm khuẩn như: tơ thưa, sợi
nấm mãnh, đầu hơi uốn khúc hoặc cuộn lại; tai nấm tạo cuống dài, kết
chùm bông cải, tai khô cứng, đổi màu sậm hoặc màu nhạt, mỏng manh, mau
già... Các biểu hiện trên thường liên quan đến yếu tố môi trường, như
nơi trồng bị yếm khí (ngộp), nước tưới bị phèn, bị chua, nhiệt độ cao,
thiếu ánh sáng, bị lạnh đột ngột..
2. Bệnh nhiễm
Phổ
biến là do vi khuẩn, nấm bệnh... Tuy nhiên, côn trùng, tuyến trùng và
nhện mạt (mites) cũng là đối tượng gây thất thu nặng, chúng ăn và cắn
phá tơ nấm, lây nhiễm vi khuẩn, nấm mốc... Có thể diệt chúng bằng các
thuốc diệt côn trùng, ruồi, muỗi, như : DDVP 2%, Azodrin 1%, nhiều nơi
còn dùng Kelthan (Dicofol) 18,5%, Endosulfan (Thiodan) 2,5%, Karate
0,05- 0,07%, Trebon 10ND...
Đối với tuyến trùng, sử dụng Formalin (Formol) 0,2- 0,3%, Furadan 3H, Mocap...
Đối
với nấm mốc ký sinh lên nấm mèo, có thể dùng các thuốc diệt, như
Bennomyl (Benlate - C) 0,1-0,2%, Sulfat sắt 0,02%, Macozeb (Dithane,
Maneb), Zineb (Tritofboral) 7%...
Đối với trường hợp nhiễm khuẩn
(vi khuẩn) hoặc nấm nhầy (myxomyces), có thể dùng Chlorin (Hypoclorid
Ca) 0,04- 0,05%, thuốc tím (KMnO4), Formol 0,2%...
Tóm lại, nấm có
thể bị nhiều bệnh khác nhau, nhưng tùy trường hợp nặng, nhẹ, lây lan
hay không, mà có biện pháp phòng trừ thích hợp. Tuy nhiên, biện pháp
dùng hoá chất vẫn không phải là tốt nhất đối với môi trường, do đó, chỉ
dùng khi nào thật cần thiết. Để tránh bệnh cho nấm, căn bản vẫn là vệ
sinh môi trường, giống gốc mạnh, dinh dưỡng đầy đủ và điều kiện nuôi ủ
thích hợp.